colon-cancer-awareness-main-d

Nguồn: Shutterstock

Hy vọng mới cho bệnh nhân ung thư đại trực tràng

Cập nhật lần cuối: 20 Tháng Chín 2016 | 5 phút - Thời gian đọc
Dr Ho Kok Sun

Bác sĩ ngoại tổng quát

Dr Ho Kok Sun

Bác sĩ ngoại tổng quát

**Nhiều người vẫn nghĩ ung thư đại trực tràng là một án tử hình, nơi bệnh nhân phải đi ngoài thông qua một lỗ hở rò rỉ với mùi hôi khó chịu trong khi chờ chết. **

Mặc dù ung thư đại trực tràng thường được cho là chỉ gặp ở những người cao tuổi, khoảng 5% xảy ra ở những người dưới 44 tuổi và 18% xảy ra những người dưới 54 tuổi.

Hầu hết mọi người cũng nghĩ đi ngoài ra máu hoặc táo bón cho thấy nguy cơ ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, chảy máu hay táo bón không nhất thiết là triệu chứng ung thư, và các triệu chứng này cũng không xuất hiện ở mọi bệnh nhân ung thư đại trực tràng.

Các triệu chứng của bệnh ung thư đại trực tràng là gì?

Hầu hết các bác sĩ gia đình đều biết rõ các triệu chứng của ung thư đại trực tràng.

Bệnh nhân ung thư đại tràng bên phải thể hiện các triệu chứng thiếu máu (ví dụ như hôn mê, cảm thấy như muốn ngất xỉu và dễ khó thở do lượng oxy trong cơ thể giảm sút). Bệnh nhân ung thư đại tràng bên trái có thể thấy những thay đổi trong thói quen đại tiện, bị táo bón và tiêu chảy đan xen, đi nặng ra máu. Bệnh nhân bị ung thư trực tràng có thể gặp tình trạng đi ngoài không hết phân. Thỉnh thoảng, bệnh nhân ung thư đại trực tràng cũng có thể có các triệu chứng chung như khó chịu ở bụng, đau bụng, đầy hơi, chướng bụng.

Tuy nhiên, ung thư giai đoạn đầu thường không có dấu hiệu. Hầu hết các polyp (phát triển lành tính) và ung thư đại trực tràng nhỏ thường không gây triệu chứng. Do những tổn thương tương đối nhỏ này không cản trở phân ra, đặc biệt là những tổn thương ở phía bên phải của đại tràng nơi mà phân thường lỏng hơn.

Làm thế nào để ngăn ngừa hay điều trị ung thư đại trực tràng?

Trong thực tế, thời gian tốt nhất để ngăn ngừa hoặc để chữa bệnh ung thư đại trực tràng là khi không có triệu chứng.

Ung thư đại trực tràng giai đoạn đầu thường không biểu hiện triệu chứng và phát hiện bệnh sớm có thể tăng khả năng điều trị thành công lên rất nhiều.

Hơn nữa, ung thư biểu mô tuyến, loại ung thư đại trực tràng phổ biến nhất, phát triển trong u tuyến (một dạng phát triển không gây ung thư hoặc là một bướu lành tính). Loại bỏ các bướu lành tính như vậy cũng tương tự như đã loại bỏ mầm mống ung thư đại trực tràng trong tương lai.

Ung thư đại trực tràng khi được phát hiện thường có xu hướng ở giai đoạn đầu và có nhiều người sống ít nhất 5 năm sau khi được chẩn đoán bệnh.

Nguy cơ ung thư đại trực tràng tăng lên nhanh chóng từ năm 50 tuổi, và thời gian để một bướu phát triển thành ung thư có thể là 10 năm hoặc hơn. Do đó, theo dõi cơ thể từ năm 40 tuổi cho phép phát hiện ra polyp và ung thư giai đoạn sớm. Gần đây, tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng giảm xuống có thể là nhờ tăng tỷ lệ nội soi tầm soát và loại bỏ các polyp.

Phát hiện sớm ung thư đại trực tràng

Xét nghiệm máu trong phân là phương pháp thường được áp dụng để sàng lọc chung. Các xét nghiệm mới sử dụng kháng thể để phát hiện chính xác thành phần globin trong máu. Phương pháp này tốt hơn phương pháp cũ là kiểm nghiệm lượng heme trong phân – yêu cầu người khám phải kiêng khem tối đa 3 ngày trước khi xét nghiệm để đảm bảo độ chính xác. Những xét nghiệm thành phần phân này có thể chuẩn đoán bệnh với độ chính xác từ 70% đến 90%.

Để xét nghiệm chính xác hơn, đại tràng có thể được kiểm tra bằng phương pháp nội soi, hoặc các phương pháp dùng tia X như bơm chất huỳnh quang barium enema (còn gọi là X quang tuyến ruột) hoặc chụp quang tuyến cắt lớp (còn gọi là nội soi ảo đại tràng). Để có kết quả xét nghiệm chính xác nhất với các kĩ thuật trên, bệnh nhân phải làm sạch ruột bằng thuốc vào đêm trước đó. Mặc dù thông thường nội soi đại tràng là thủ thuật xâm lấn và có nguy cơ làm tổn thương nội tạng, xét nghiệm chụp hình quang tuyến cũng có nguy cơ (thấp hơn) bị thủng nội tạng bởi phải dùng không khí để mở rộng đại tràng. Nội soi đại tràng có lợi thế là được gây mê, cắt bỏ các khối u lành tính (polyps) và mô để sinh thiết, và có thể dễ dàng phân biệt được vết thương với phần phân dính vào đó.

Phẫu thuật là một phương án điều trị khả thi

Phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị ung thư đại trực tràng hiệu quả nhất. Với những tiến bộ trong công nghệ y tế, phẫu thuật nội soi là lựa chọn tối ưu. Phẫu thuật mở thường áp dụng cho những người bệnh có phần ung thư rất lớn hoặc ung thư đã lan ra các khu vực xung quanh. Phẫu thuật robot có thể là lựa chọn phù hợp hơn khi đối phó với ung thư trực tràng trong không gian hạn chế của khoang chậu.

Có những bệnh nhân rất băn khoăn về việc có hậu môn giả chuyển phân / nước tiểu ra một chiếc túi bên ngoài cơ thể. Việc tạo ra một lỗ thông tạm thời thường được dành riêng cho các khối u trực tràng gần hậu môn, còn nếu cơ vòng hậu môn bị ảnh hưởng bởi khối u và cần được loại bỏ thì bệnh nhân sẽ cần có một lỗ thông cố định. Lỗ thông tạm thời có thể được đóng lại sớm nhất là 1 tháng sau khi giải phẫu. Đối với những bệnh nhân cần lỗ thông, hầu hết các lỗ thông có thể được che kín, không nhìn hoặc ngửi thấy được.

Hóa trị liệu được áp dụng sau điều trị ban đầu đối với ung thư giai đoạn 3 cũng như ung thư giai đoạn 2 có nguy cơ tái phát cao. Xạ trị chỉ được áp dụng cho ung thư trực tràng, hoặc để làm giảm các triệu chứng và các phản ứng phụ khi điều trị ung thư.

Bài viết liên quan
Xem tất cả